Khi vợ, chồng tham gia vào quá trình sản xuất lao động sẽ tạo lập ra tài sản trong hôn nhân. Trên phương diện pháp luật, tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai cơ sở: Thứ nhất, là chế độ tài sản theo thoả thuận giữa vợ và chồng; thứ hai là chế độ tài sản dựa trên quy định của pháp luật. Như vậy, giữa vợ và chồng hoàn toàn có thể tự do lựa chọn một chế độ tài sản riêng để áp dụng cho tài sản của vợ, chồng.
1. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
1.1. Hình thức của thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 LHNGĐ 2014 quy định “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận”. Như vậy, trên cơ sở quy định của luật cho phép vợ chồng có thể tự do lựa chọn chế độ tài sản để áp dụng đó có thể là chế độ tài sản theo pháp luật hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận. Bên cạnh nội dung của Luật HNGĐ 2014 tác giả cũng tìm được trong văn bản pháp luật khác có nội dung điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng, cụ thể là tại Điều 7 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nêu rõ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình”.
Bên cạnh đó, Điều 47 LHNGĐ 2014: “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”
Như vậy, về mặt hình thức thoả thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng phải bằng văn bản. Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì thoả thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Vậy nên, nếu trước khi xác lập hôn nhân, vợ chồng không thoả thuận xác lập chế độ tài sản theo thoả thuận, thì sau khi xác lập hôn nhân họ không có quyền thoả thuận xác lập chế độ tài sản này. Cũng như vậy, nếu có thoả thuận xác lập chế độ tài sản theo thoả thuận nhưng họ lại không xác lập hôn nhân, thoả thuận này không có giá trị pháp lý bởi lẽ thoả thuận chỉ có giá trị pháp lý khi họ trở thành vợ chồng của nhau.
Việc quy định thoả thuận của vợ chồng phải bằng văn bản và có công chứng, chứng thực sẽ đảm bảo cho việc xác lập giữa các chủ thể diễn ra một cách tự nguyện, khách quan, cụ thể, rõ ràng, có căn cứ đảm bảo cho các chủ thể thực hiện đúng những cam kết trước đó. Xét dưới góc độ Luật Dân sự thoả thuận giữa vợ chồng có thể được xem là một giao dịch dân sự do hai chủ thể xác lập. Vì thế, thoả thuận này cần phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự: về chủ thể, về sự tự nguyện, về nội dung và mục đích của giao dịch cần phải được tuân thủ theo quy định của luật Dân sự.
1.2 Nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng
Theo quy định tại Điều 48 LHNGĐ 2014 có quy định những nội dung cơ bản của thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
d) Nội dung khác có liên quan”.
Bên cạnh đó tại khoản 2 Điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ, chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31, 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định. Như vậy, có thể hiểu quy định này như sau, trong việc thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận phát sinh vấn đề hai bên thoả thận không rõ ràng thì áp dụng những quy định tương ứng về chế độ tài sản theo luật định. Trường hợp này được áp dụng không phụ thuộc vào ý chí sự lựa chọn thoả thuận của chủ thể trước đó.
2. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Bản chất thoả thuận giữa vợ, chồng có thể được xem là một giao dịch dân sự. Do vậy, nếu muốn thay đổi nội dung của hợp đồng hay nói một cách khác là thay đổi nội dung của thoả thuận cần phải được sự đồng ý của các bên, thể hiện sự đồng thuận về ý chí thống nhất cùng sửa đổi, thì việc sửa đổi mới có hiệu lực.
Theo quy định tại Điều 49 LHNGĐ 2014 quy định:
“1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản;
2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều 47 của Luật này”
Nội dung này, được cụ thể ở Điều 17 Nghị định 126/2014/NĐ-CP đã cụ thể hóa quy định này như sau:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định;
2. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”.
Trên cơ sở của những quy định nêu trên có thể kết luận được rằng: Luật hoàn toàn cho phép các chủ thể có quyền tự sửa đổi thoả thuận của họ bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng phải theo những quy định chung về thủ tục giống như khi xác lập thoả thuận. Họ có quyền thoả thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của thoả thuận hoặc có thể thoả thuận áp dụng chế dộ tài sản theo luật định. Thoả thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế dộ tài sản của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng hoặc chứng thực.
3. Thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Thoả thuận về chế độ tài sản của vợ, chồng là một giao dịch dân sự văn bản thoả thuận này được xem là vô hiệu khi vi phạm các quy định tại khoản 1 Điều 50 LHNGĐ 2014:
“a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.”
Thứ nhất, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan. Theo quy định tại khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 một giao dịch dân sự muốn có hiệu lực cần phải đáp ứng các điều kiện sau: chủ thể có năng lực hành vi dân sự phù hợp; đáp ứng về sự tự nguyện; mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Xét đến những quy định của LHNGĐ 2014 thì nếu như vợ, chồng tại thời điểm xác lập văn bản thoả thuận chưa đủ độ tuổi kết hôn hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì thoả thuận sẽ bị vô hiệu. Văn bản thoả thuận cũng được xem là vô hiệu khi tại thời điểm xác lập thoả thuận một trong hai người, vợ hoặc chồng không tự nguyện xác lập thoả thuận về tài sản bị lừa dối, cưỡng ép, nhầm lẫn thì thoả thuận này cũng không được xem là văn bản thoả thuận có giá trị pháp lý. Bên cạnh đó, việc thoả thuận giữa hai người, vợ hoặc chồng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Về nguyên tắc chung của chế độ tài sản vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng; giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.
Thứ ba, nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình. Đây là quy định làm hạn chế đi việc xác lập thoả thuận không lành mạnh của vợ, chồng nhắm đến mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Chính việc thoả thuận về chế độ tài sản để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ như vậy nên những thoả thuận này đều sẽ bị vô hiệu.
4. Hệ quả pháp lý của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân
4.1 Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên vợ, chồng đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết
Căn cứ vào khoản 2 Điều 66 LHNGĐ 2014 quy định “Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế”.
Nhận xét về nội dung quy định trên. Tác giả nhận thấy, vợ chồng có quyền thỏa thuận và ghi nhận vào văn bản thỏa thuận chế độ tài sản của mình các điều kiện, nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt quan hệ hôn nhân trong các trường hợp khi vợ hoặc chồng chết.
Như vậy, khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên vợ, chồng đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì việc phân chia di sản thừa kế vẫn phải tiếp tục, tuân thủ các quy định mang tính bắt buộc của Bộ luật Dân sự 2015 về thừa kế tức là phải tôn trọng quyền thừa kế, không phụ thuộc vào nội dung di chúc của những chủ thể được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP. Theo đó, Tòa án quyết định tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình và lưu ý một số trường hợp sau đây:
– Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm quyền được bảo đảm chỗ ở của vợ, chồng quy định tại Điều 31 và điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó cho phép một bên được quyền định đoạt nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng dẫn đến vợ, chồng không có chỗ ở hoặc không bảo đảm chỗ ở tối thiểu về diện tích, điều kiện sinh hoạt, an toàn, vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật về nhà ở.
– Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật hôn nhân và gia đình hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình đã được Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật khác có liên quan quy định.
4.2. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do ly hôn hoặc do hủy kết hôn trái pháp luật
Về ly hôn
Trên cơ sở của Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:
Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Điểm b Khoản 1 quy định trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu hoàn toàn thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.
Về hủy kết hôn trái pháp luật
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 LHNGĐ 2014: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này. Như vậy, Khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do hủy kết hôn trái pháp luật, chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng được giải quyết theo các quy định như hủy kết hôn trái pháp luật trong các trường hợp khác bởi vì các quy định về hủy kết hôn trái pháp luật tại các điều 10, 11, 12 được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật, không phân ra các trường hợp khi giữa vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo luật định hay chế độ tài sản theo thỏa thuận.